Giao thông vận tải nhìn từ Công nghiệp đóng tàu
Trong lịch sử người Việt, thì kiến thức thủy văn, khí tượng, kinh nghiệm tác chiến thủy cũng như kỹ thuật chế tác thuyền đã có trước cả thời đại Hùng Vương.
Những kinh nghiệm ấy ngày càng phát triển và được hệ thống lại cùng với kỹ thuật trắc địa, kỹ thuật thi công, kỹ thuật đóng phương tiện đã giúp nhà Lê ở thế kỷ thứ X, đào hệ thống kênh để tiến về phương Nam, mà ngày nay vẫn gọi là hệ thống kênh nhà Lê.
Còn kỹ thuật chế tác phương tiện thì nhiều cuốn sách in bằng tiếng nước ngoài đã từng mô tả:
Nghề đóng thuyền của dân tộc Việt đã tạo ra không chỉ có những thuyền buôn để vượt biển, mà còn cả một hệ thống thuyền chiến. Vào năm 40, nữ tướng Lê Chân (của Hai Bà Trưng) được giao trấn giữ cửa biển An Biên (Hải Phòng) với một đạo quân thủy, thuyền chiến của Lê Chân trong một trận đã đánh chìm 4 chiến thuyền bọc sắt của Mã Viên, đủ để đoán rằng việc chế tạo thuyền chiến của nữ tướng vững chãi như thế nào.
Hai trận Bạch Đằng (938,1288), trong đó Bạch Đằng 1288, 400 chiến thuyền của quân Nguyên rơi vào tay quân Trần, hơn 4 vạn tướng sĩ Nguyên Mông đã bị loại khỏi vòng chiến. Chứng tỏ kỹ nghệ đóng thuyền của Đại Việt đã tinh xảo hơn thuyền chiến ngoại bang.
Lịch sử chép rằng “Thời Lý đã có những xưởng lớn để đóng thuyền chiến, xuất xưởng mỗi năm vài, ba trăm chiếc, có thuyền chở được 200 người với số lượng thực mang theo cho một hành trình hàng ngàn cây số...” (Theo Hoàng Xuân Hãn).
Bắt đầu từ chiếc thuyền độc mộc phát triển thành những chiếc thuyền lớn chạy buồm, rồi đến thuyền có máy gọi là Thủy Xa một thành, tàu lắp động cơ hơi nước (1838) được đặt tên là Yến Phi, Vân Phi, Vụ Phi... là một quá trình phát triển của công nghệ đóng tàu Việt Nam trong nhiều thế kỷ.
Những con tàu ấy đã làm thay đổi không chỉ giao thông thủy, mà còn tăng sức mạnh quốc phòng của các triều đại phong kiến Việt
Vào ngày 2 tháng 3 năm 1801, khi mô tả về thủy quân Việt ở Thi Nại, Jean Baptist Chaigneau đã viết: “Ở đó (Thi Nại Quy Nhơn) có 300 pháo hạm, 100 tàu chở quân, 93 thuyền chiến trên mỗi thuyền có 1 đại bác cỡ nòng 36, 40 tàu khác, mỗi tàu có 16 súng cỡ nòng 12...Tổng cộng có tới 600 thuyền và thương thuyền...”
Năm 1817 nhà Nguyễn đã cho đào Kênh Kiên Giang, năm 1819 đào tiếp kênh Vĩnh Tế (nối liền Châu Đốc – Hà Tiên), tạo một hệ thống giao thông thủy thuận tiện cho Nam Bộ. Nghề đóng tàu thuyền đã phát triển và trở thành phương thức vận tải chính của cả khu vực.
Nhà máy tàu thủy Ba Son được khởi công xây dựng năm 1858, còn ở Hải Phòng vào những năm 1871-1873, Bùi Viện được vua Tự Đức giao nhiệm vụ xây dựng bến cảng Ninh Hải ở cửa sông Cấm để phát triển giao thông thủy cũng như phòng thủ bờ biển.
Vận tải thủy đã có vinh dự lớn đó là ngày 24 tháng 8 năm 1945 chiếc tàu chở Hồ Chủ Tịch đi theo tuyến sông Hồng, đã cập bến Phúc Xá an toàn để chuẩn bị cho ngày lễ mừng độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2 tháng 9 năm 1945).
Những năm chống Mỹ, công nghiệp đóng tàu đã góp phần quan trọng để vận tải trên đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, bằng các loại tàu không số, chống phong tỏa thủy lôi ở các cảng biển, cảng sông bằng nhiều loại tàu trong đó có tàu không người lái ký hiệu T5.
Có thể nói công nghiệp tàu thủy đã làm thay đổi cục diện ngành vận tải thủy, góp phần giải phóng miền
Nước nhà thống nhất, vận tải đường thủy càng có vị trí lớn trong hệ thống giao thông cả nước. Tổng công ty công nghiệp tàu thủy được thành lập theo Quyết định 69/TTg ngày 31 tháng 1 năm 1996 do Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt ký. Thủ tướng đã nhấn mạnh về ý nghĩa chiến lược đối với việc phát triển ngành công nghiệp đóng tàu: “Đó là một quả đấm trong sự nghiệp phát triển nền cơ khí quốc gia”.
Nhìn từ công nghiệp đóng tàu, có thể thấy kết quả của công nghiệp hóa ở một quốc gia biển như Việt
Từ 1945 đến 2015, vừa tròn 70 năm Giao thông vận tải Việt