Bước phát triển mới trong hợp tác lao động với nước ngoài
Trong bối cảnh tình hình hiện nay của SBIC vừa thực hiện tái cơ cấu lao động theo chủ trương của Chính Phủ và Bộ giao thông vận tải, việc giữ vững thị trường truyền thống Nhật Bản trong lĩnh vực hợp tác lao động là tầm nhìn chiến lược lâu dài vì các lý do khách quan và chủ quan sau:
Nhật Bản là một trong những nước có tuổi thọ cao nhất thế giới. Việc có hơn 23% dân số Nhật là người già trên 65 tuổi đang đẩy nước này vào tình trạng thiếu lao động trẻ trầm trọng. Để bù đắp thiếu hụt nguồn nhân lực do dân số già hóa và tỷ lệ sinh thấp, Chính phủ Nhật Bản đã mở rộng chương trình thực tập kỹ thuật với thời gian tối đa là 3 năm. Mục đích của chương trình này là đào tạo nguồn nhân lực để phát triển kinh tế, công nghiệp ở các nước thông qua chuyển giao kỹ thuật, kỹ năng và kiến thức về lĩnh vực sản xuất của Nhật Bản cho người nước ngoài. Ngay từ ngày đầu thành lập tháng 1/1999, Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (nay là Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy) đã đặc biệt quan tâm đến công tác phát triển nhanh nguồn lao động kỹ thuật đóng tàu có chất lượng cao. Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác đào tạo mới, đào tạo lại tại các cơ sở trong nước, đầu tư kinh doanh, nâng cấp các trường dạy nghề, Tổng công ty đã chủ trương triển khai ngay việc đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động tại các nước có ngành đóng tàu phát triển, đặc biệt là Nhật Bản. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo và hợp tác lao động, ngày 19/01/1999 Tổng công ty đã thành lập bộ phận chuyên trách dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lãnh đạo Tổng công ty với tên gọi Trung tâm Hợp tác đào tạo lao động với nước ngoài và Trung tâm đã tồn tại và hoạt động cho đến nay.
Sau 15 năm hoạt động, Trung tâm đã thực hiện việc đưa lao động các đơn vị thành viên đi đào tạo tại 4 nhà máy đóng tàu thuộc Hãng đóng tàu JMU (Nhật Bản) là Tsu, Ariake, Kure, Maizuru. Tính đến nay, Trung tâm đã đưa được 1.427 lao động đi làm việc tại Nhật Bản: Nhà máy Tsu: 887 lao động; Nhà máy Ariake: 241 lao động; Nhà máy Kure: 283 lao động; Nhà máy Maizuru: 16 lao động; Số lao động hoàn thành chương trình tu nghiệp về nước: 1.019 lao động; Số lao động bỏ trốn: 105 lao động; Số về nước trước hạn: 75 lao động; Số hiện đang tu nghiệp: 228 lao động.
Lao động của ta được phía Nhật Bản đánh giá cao về tay nghề, chịu khó và khả năng tiếp thu nhanh về kỹ năng, kỹ thuật, nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống, công việc ở Nhật Bản. Thu nhập bình quân của người lao động từ 133.000 ~ 142.000 yên/tháng (tương đương 27.000.000 ~ 29.000.000 VNĐ). Các điều kiện phục vụ cuộc sống và sinh hoạt được đảm bảo tốt. Các kỹ sư và công nhân Nhật Bản nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn chuyên môn nghề nghiệp và cuộc sống.
Sau 15 năm đưa lao động sang đào tạo tại Nhật Bản, số thực tập sinh hoàn thành chương trình tu nghiệp trở về đơn vị đã thực sự trở thành nhân tố quan trọng, đảm nhiệm các công việc đòi hỏi tay nghề cao trong sản xuất, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo chất lượng các sản phẩm lớn có tính năng kỹ thuật phực tạp và các sản phẩm xuất khẩu, đa số được các đơn vị giao làm tổ trưởng, đốc công, một số được bố trí vào các vị trí quản lý điều hành như quản đốc, phó quản đốc…
Trước những dấu hiệu đáng mừng đó, để giữ vững được thị trường Nhật Bản, Trung tâm phải thực hiện các công việc sau:
- Giữ vững thị trường đào tạo lao động đang có với 4 nhà máy đóng tàu của Nhật Bản; Tích cực đẩy mạnh chất lượng lao động cử tuyển; Làm tốt công tác giáo dục định hướng cho người lao động trong thời gian chờ xuất cảnh, quản lý người lao động ở nước ngoài để hạn chế thấp nhất các vi phạm của người lao động nhằm nâng cao uy tín của Tổng công ty; Tìm mọi biện pháp để phía đối tác tăng thêm số lao động đi đào tạo hàng năm và mở rộng đào tạo ở các lĩnh vực công việc khác như thợ điện, thợ sơn và trang trí nội thất tàu thủy.
- Tranh thủ mối quan hệ đã có với Hãng Japan Marine United Corporation phối hợp với Ban quản lý lao động tại Nhật Bản và Đại sứ quán để tìm thêm các hợp đồng mới với các Hãng khác không chỉ đóng tàu mà các ngành nghề khác.
Hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày càng có vai trò quan trọng, đã góp phần tích cực đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần giải quyết việc làm hiệu quả, nâng cao thu nhập cho người lao động, giảm nghèo và giảm nghèo bền vững. Với ngành công nghiệp tàu thủy nó còn có ý nghĩa lớn là tạo ra một đội ngũ những người lao động có trình độ kỹ thuật cao, tác phong công nghiệp và ý thức kỷ luật nghiêm. Đây thực sự là những hạt giống quí của ngành đóng tàu trong tương lai.
Trần Thị Đoan Trang
Giám đốc Trung tâm
Hợp tác Đào tạo lao động với nước ngoài