Chuyện người trong cuộc: Rèn “ngựa Thánh Gióng” của Biển Đông (Bài 3)
Bài 3: “Lò tàu sắt” bên dòng Tam Bạc
Cánh cửa sắt hoen gỉ, những ngôi nhà đá rửa ga-ni-tô màu xám tro ảm đạm, công trường đóng tàu cỏ mọc um tùm, cây si già rủ bóng... Cảnh Nhà máy đóng tàu Tam Bạc một chiều đầu thu khiến chúng tôi chạnh lòng khi nghĩ đến rất nhiều trang sử sách từng ghi: Nơi đây đã sản xuất những con tàu sắt đầu tiên phục vụ con đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại...
Xưởng tàu “duyên nghiệp” nhà binh
Từ cầu Lạc Long chạy theo tả ngạn sông Tam Bạc, đường tới Nhà máy đóng tàu Tam Bạc chạy qua hai con phố mang tên một vị "tướng văn” và một “tướng võ”: Phố Phạm Phú Thứ và phố Cao Thắng. Nghe nói xa xưa, lúc mới mở có tên là phố Ma-rin (Rue de la Marine), nghĩa là phố thủy quân. Những ký ức xa lắc ấy như ngầm gắn cái duyên quân sự cho một trong những khu phố thợ ra đời sớm nhất thành phố cảng. Từ năm 1882, Hãng Sacric thành lập, là hãng có tàu chở khách và tàu lai, sà lan chở hàng, có xưởng đóng tàu và sửa chữa tàu thủy. Nay cơ sở của hãng là Nhà máy đóng tàu Tam Bạc.
Dẫu hiện tại còn nhiều khó khăn, nhưng nói về quá khứ, cả anh Hùng, Giám đốc nhà máy lẫn các cán bộ mà chúng tôi gặp, đều có thể kể vanh vách câu chuyện tàu không số mà không cần sổ sách. Có lẽ quá khứ vàng son cũng là một động lực để họ không nản lòng trước mọi khó khăn. Khi chúng tôi đến, chị Nguyễn Mai Hương, cán bộ Phòng Hành chính, con gái nguyên Giám đốc nhà máy Nguyễn Cao Bút đã đợi sẵn, nói:
Ông Trương Văn Trọng tìm lại nơi đóng tàu không số năm xưa. Ảnh: Văn Minh
Số phận nào chẳng có vinh quang đi liền với cay đắng. Chị Hương đưa chúng tôi xem hai tập giấy mỏng, loại giấy in rô-nê-ô của thời bao cấp, đã úa màu thời gian. Bìa ngoài vẫn còn rõ màu xanh lá cây kèm dòng chữ: “25 năm Nhà máy đóng tàu Tam Bạc (1955-1980)". Nhà máy từng bị cháy, mất hết biết bao hồ sơ, tài liệu. Lần ấy, vô tình lục tìm trong đống rác, chị giữ được hai cuốn “sử” của nhà máy. Giờ đây, lật giở những trang giấy mỏng manh, đọc lại những dòng viết về tàu không số, giọng chị Hương như lạc đi: “Năm 1963, nhà máy đã nhận đóng 6 tàu chạy ven biển với trọng tải 100 tấn, lắp máy 6NVD,36 bằng 225CV với tốc độ không tải là 10,8 hải lý/giờ, khi có tải là 9,5 hải lý/giờ, phục vụ cho Chiến dịch Ấp Bắc. Tàu chạy ven biển một tháng đã vận tải được 200 tấn vũ khí quân trang quân dụng, nối liền tình cảm Bắc-Nam. Tàu đi từ Hải Phòng vào Cà Mau không quá 4 ngày 4 đêm...”.
Con tàu số một
Người công nhân già Trương Văn Trọng năm nay đã 76 tuổi nhưng vẫn hồ hởi đội trời mưa, cưỡi chiếc xe gắn máy cũ đến nhà máy rồi đưa chúng tôi ra tận khu bãi cỏ um tùm, chỉ chỗ này đóng tàu, chỗ kia bộ đội từng đứng gác... Ký ức bỗng ùa về, bừng sáng...
Những ngày cuối năm 1962, ven bờ sông Tam Bạc, Xưởng đóng tàu số 3, tiền thân của nhà máy hiện nay sau 7 năm thành lập, cơ ngơi xưởng nói chung cũng như bộ mặt ngành đóng tàu toàn thành phố thời đó vẫn còn hết sức lèo tèo vì những gì ngon lành nhất thì các ông chủ tư sản đã cuốn gói mang đi. Diện tích của xưởng chỉ chừng 8000m2 với hơn 400 công nhân, chủ yếu làm 3 sản phẩm chính gồm sà lan 200 tấn, tàu lai 80CV và tàu cuốc Đình Vũ. “Đúng thời điểm này, chúng tôi được Giám đốc Đoàn Kim Quang giao nhiệm vụ tham gia đóng tàu sắt cho Đoàn 125, theo mẫu của trên giao xuống. Tôi chỉ biết là đóng tàu cho bộ đội, nhưng không biết tàu đó để làm gì, đi những đâu”-ông Trọng nhớ lại.
Giáp Tết 1963, chiếc tàu đầu tiên hoàn thành, được mang thử trên cùng hành trình với con tàu khách chạy ra Cát Bà, là loại tàu khách chạy nhanh nhất lúc bấy giờ. Hôm thử tàu, ông Trọng thấy có cả Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Phan Trọng Tuệ xuống dự, đi bên cạnh là một ông mặc áo đại cán. Hỏi ra mới biết đó là Tư lệnh Hải quân Tạ Xuân Thu. Tàu chạy băng băng, êm ru, lại nhanh vượt cả tàu khách Cát Bà, anh em vỗ tay hoan hô vui sướng. Còn Tư lệnh Hải quân thì cười rạng rỡ, nắm chặt tay Bộ trưởng Tuệ: “Cảm ơn! Cảm ơn các anh nhiều lắm!”.
Biển gọi
Con tàu đầu tiên sau cuộc đi thử thành công đã được bàn giao cho Đoàn 125 ở khu vực Hòn Dáu. Ngày 17-3-1963, nó đã lên đường chở 44 tấn vũ khí vào bến Trà Vinh an toàn, mở ra một cột mốc mới của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Cũng từ đây, nhiệm vụ trên giao càng dồn dập. Tàu này chưa xong, tàu kia đã đóng mới tiếp, cái nọ nối cái kia, xen kẽ. Kinh nghiệm đã có, Xưởng 3 làm với tốc độ cực nhanh, có lúc, chỉ một tháng đã hạ thủy thành công một con tàu. “Sau này nhớ lại, bọn tôi bảo nhau: “Tụi mình làm tàu còn nhanh hơn dân hàng mã chợ Sắt, có khi cứ 3 ngày ra lò một tàu hoặc sà lan”.
Sản xuất đến chiếc tàu thứ ba thì một hội nghị Trung ương họp ở gần bến Đồ Sơn. Gần nơi cuộc họp diễn ra, hai chiếc tàu không số vừa đi hàng vào tận miền Nam trở về, đang ung dung thả neo chờ nhiệm vụ. Tổng bí thư Lê Duẩn đi qua nhìn thấy, ngạc nhiên hỏi:
- Tàu nước nào đến thăm ta thế này?
Ông Tạ Xuân Thu thưa, đó là... tàu không số. Tổng bí thư xúc động, hỏi dồn: “Tàu không số? Ở đâu làm thế? Sao đẹp như tàu nước ngoài vậy?”-“Thưa! Xưởng 3!”-“Xưởng 3 làm được cơ à? Tốt quá! Cho tôi xuống thăm Xưởng 3”.
Thế là ngay buổi chiều hôm đó, nhiều cán bộ cấp cao, trong đó có các đồng chí: Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng đã xuống tận công trường, thăm và động viên bộ đội, công nhân đang làm tàu không số.
Chiến trường miền
Nói thì đơn giản vậy, nhưng sản xuất tàu sắt không ít gian nan. Không ít lần, con tàu vừa sơn màu xanh, nằm phơi mình trong nắng chưa khô thì lại nhận lệnh chuyển sơn màu đen. Sơn đen vừa xong, lại có lệnh chuyển màu... ghi! Đó là chuyện thường ngày của... tàu không số. Tàu phải làm sao giả dạng tàu địch, tàu miền
Cùng với đóng mới, Xưởng 3 dần dần phải thêm nhiệm vụ đại tu, sửa chữa những con tàu đi biển trở về. Ông Trọng nhớ nhất lần Trung úy Linh, một cán bộ Đoàn 125 sang bàn giao tàu sửa chữa, anh em ai nấy cứ ngó cái nước da đen trũi của Linh rồi lại thủng thẳng chỉ sang con tàu nhìn “điêu tàn”, mốc thếch như một con “trâu đằm” mà chất vấn:
- Mới hôm nào chúng tôi bàn giao ngon lành thế! Các bố đi đâu, làm gì mà như phá thế này?
Anh Linh ban đầu giả bộ ngó lơ nhưng sau thấy không giấu nổi cũng đành rỉ tai: “Bọn tớ vào
Làm nhanh, làm tốt, không hề lộ bí mật vì tất cả cùng cảm nhận được lời biển gọi. Tổ quốc gọi họ bên bờ sông Tam Bạc.
-------------------------
Bài 4:
Ghi chép của NGUYÊN MINH