Vua Minh Mạng phát triển thủy quân, nâng cao sức mạnh Quốc phòng trên biển

Từ xa xưa, các triều đại phong kiến Việt Nam đã kế tiếp nhau thực thi bảo vệ chủ quyền biển đảo, đặc biệt là việc xác lập chủ quyền lãnh thổ tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đến đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn, với tầm nhìn chiến lược về an ninh, quốc phòng và kinh tế, các hoạt động này đã được nhà vua nâng lên ở tầm sâu rộng hơn.

 
                                    Chân dung vua Minh Mạng (1820 - 1841)

Nhận thức rằng, để có thể bảo vệ vùng biển đảo của đất nước, giữ gìn an ninh và làm nhiệm vụ bảo vệ ngư dân hoạt động khai thác, đánh bắt thủy hải sản, thu lượm vật dụng và nhất là tiến hành các hoạt động củng cố chủ quyền trên các hải đảo xa xôi trước nạn cướp biển cũng như nguy cơ đe dọa từ tàu thuyền nước ngoài, vua Minh Mạng đã chủ trương phát triển lực lượng thủy quân.

Ngoài việc cho đóng nhiều tàu chiến, trang bị đại bác theo kiểu cách truyền thống, vua Minh Mạng còn quan tâm đến những tiến bộ của nền khoa học, kỹ thuật phương Tây để áp dụng vào nước ta, trong đó có việc cải tiến kỹ thuật đóng thuyền. Không chỉ chú trọng gia tăng số lượng, nhà vua còn cho tăng chủng loại tàu thuyền, định ngạch các hạng thuyền (ấn định số lượng các loại thuyền cần đóng) ở các địa phương.

Quy chế thủy quân được vua Minh Mạng cải tiến, ông định kích thước và kiểu dáng cho từng hạng thuyền, thống nhất trong phạm vi cả nước để các xưởng thuyền theo các quy thức đó mà đóng cho chuẩn. Đặc biệt, vua Minh Mạng đã cho đóng thuyền bọc đồng theo mẫu của người Pháp. Vào năm Nhâm Ngọ (1822), vua cho mua một chiếc thuyền  bọc đồng của Pháp đưa về Huế, đặt tên là Điện Dương, để làm mẫu cho các xưởng đóng thuyền tại kinh đô nghiên cứu, triển khai đóng theo mẫu thuyền này.

Sách Khâm định Đại Nam thực lục cho biết, tháng 6 năm ấy, vua “sai Thống chế thủy sư Phan Văn Trường coi đóng thuyền hiệu theo kiểu Tây dương”. Chiếc thuyền bọc đồng đầu tiên hoàn thành được đặt tên là Thụy Long, sau đó hàng hoạt thuyền bọc đồng được đóng thêm chủ yếu là thuyền chiến, một số là thuyền dùng trong các chuyến công cán ở nước ngoài.
                                               Thuyền thời Nguyễn

Ngoài thuyền bọc đồng, năm Mậu Tuất (1838), vua Minh Mạng cho mua một chiếc tàu máy hơi nước cũ của Pháp đem về tháo ra nghiên cứu để lấy mẫu đóng thử. Đến tháng 4 năm sau, chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên của nước ta đóng xong và chạy thử thành công. Tháng 10 cùng năm đó chiếc tàu máy hơi nước thứ 2 cũng được hoàn thành. Từ đó, vua xây dựng quy thức đóng tàu máy hơi nước vào năm Canh Tý (1840) với “thân rộng 7 thước 5 tấc, dài trên dưới 4 trượng, nhưng thân không quá sâu, khoảng 1 trượng, để dễ dàng di chuyển trên các dòng sông”. (Theo quy định thời Nguyễn, 1 thước = 0,425m, 1 trượng = 10 thước = 100 tấc = 1000 phân = 10000 ly).

Vào năm Canh Dần (1830) Minh Mạng đã cho chế và cấp cờ hiệu cho các cơ ở Bắc thành, mỗi cơ sở một lá cờ vuông, mặt cờ đính tên hiệu quân sắc vàng tươi, tiền quân sắc đại hồng, hậu sắc lão lam, tả sắc quan lục và hữu quân sắc bạch tuyết. Đường răng cưa quanh cờ và đại cờ cũng quy định màu rõ ràng, đều xoay quanh ngũ sắc ứng với ngũ phương.

Năm Quý Tị (1833) vua lại định thêm số lượng và màu cờ hiệu cho các chiến thuyền ở Bắc Thành để khi có việc, thuyền đi thì ở về phía thuyền kéo cờ để làm tín hiệu. Tiếp theo còn quy định việc treo cờ và dùng cờ hiệu ở các vọng lâu cửa biển. Đồng thời cũng quy định hiệu cờ khi hành quân đường thuỷ: tuỳ theo các hiệu cờ "tam tài" - "thiên địa" - "tứ định" - "ngũ hành" - "tứ tượng" - "giao thái" - "lục hiệp" đưa ra mà viên quản thuyền phải điều khiển cả đoàn thuyền hành quân theo đúng tốc độ và cự ly. Nếu thấy cờ "thống nhất" thì các đại thần phải kịp đến thuyền vua nghe lệnh. Ai làm không đúng hiệu cờ đều bị phạt nặng.

Các đời vua trước, thủy quân thao diễn, luyện tập thường là phép dàn trận, tấn công, tiến lui… Đến thời Minh Mạng, vào năm Canh Tý (1840) cuộc tập trận có mục tiêu giả định lần đầu tiên được tiến hành. Theo sử sách nhà Nguyễn ghi lại, vua đã định phép thao diễn thuỷ sư như một cuộc tập bắn trên biển với diễn biến như sau:

Một cái bè nổi giả làm hình thuyền, dài độ 3 trượng, ngang hơn 1 trượng, dùng phên nứa làm giả lá buồm được dựng lên. Đặt bè ở biển có vị trí hơi xa bờ, xung quanh thả neo để khỏi bị trôi. Những thuyền tham gia diễn tập đậu cách bè chừng 50 trượng, tất cả đều chỉnh tề đợi lệnh.

Khi thành Trấn Hải treo cờ đỏ thì cuộc thao diễn bắt đầu, các thuyền đều nhổ neo chạy về phía bè. Khi đến quãng giữa thì thuyền đến trước sẽ mang súng bắn liền 3 phát rồi tiến quá phía trước bè ngoài 500 trượng lại quay trở về. Các thuyền đi tiếp sau cũng làm như thế. Bắn xong 3 đợt thì cờ trên thành Trấn Hải hạ xuống, truyền lệnh thu quân, các thuyền cuốn buồm và hạ neo.

Trước đó, vào năm Mậu Tuất (1838) trong một cuộc ngự giá xem thủy quân thao diễn tại kinh đô, vua Minh Mạng ban dụ rằng: “Quân thủy chiếu lệ, mỗi tháng phải tập thủy chiến một lần, phải đến gần bờ phía Nam sông Hương Giang, học phép bắn súng nhỏ, súng lớn cùng cách thức ngồi, đứng, đi, chạy, để biết phương pháp đánh trên bộ”.

Sau đó vua nói với quan Binh bộ Thượng thư Trương Đăng Quế về dự định của vua đối với việc soạn sách thủy chiến để làm tài liệu cho quân sĩ học tập. Sách Minh Mạng chính yếu cho biết: “Binh chế của triều ta, về Tượng trận và bộ trận đều là am nhàn, tinh thục, còn về thủy chiến thì chưa được tinh thục. Trẫm thường hỏi những người phái viên đi công cán các nơi về đều nói là các nước Tây Dương, chỉ có nước Hồng Mao (Anh Cát Lợi – nước Anh) và nước Ma Ny Căng (La Mã – nước Ý) là rất giỏi về thủy chiến.

Kinh Thi thư là để dạy học trò, sách Võ kinh là để dạy quân lính, chỉ có phép thủy chiến chưa chép thành sách nào để cho người ta học tập"... ..." Trẫm cũng biết qua một vài phần về phương pháp thủy chiến của các nước Tây Dương, trẫm muốn các ngươi trù tính kỹ càng, làm thành quyển sách thủy chiến, giao cho quân lính ngày đêm học tập, đó mới là cách phòng bị trước khi có việc”.

Một năm sau vua còn lệnh thu thập bản đồ thủy chiến của các nước Tây Dương để xem xét, tìm hiểu và truyền cho các quan ở bộ Binh cùng nghiên cứu để làm ra sách thủy chiến đặt tên là sách “Thủy chiến tiên cơ quyết thắng”.

Là vị hoàng đế rất coi trọng bảo vệ chủ quyền biển đảo, trong thời gian trị vì của mình, vua Minh Mạng đã tích cực củng cố việc xác lập chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như phòng thủ, giữ gìn các hải đảo khác của đất nước.

Ngoài việc tăng cường xây dựng thủy quân, xây dựng phép thủy chiến, nhà vua còn đặt lệ tuần biển để bảo vệ lãnh hải, đánh đuổi cướp biển và kịp thời phát hiện, đối phó với các hành vi xâm lấn có thể xảy ra từ hướng biển. Hoàng đế Minh Mạng cũng là người nhận thấy cần huy động sức mạnh của người dân trong việc gìn giữ chủ quyền biển đảo. Vào năm Bính Thân (1834) ông đã trang bị vũ khí cho các ngư dân, dân chúng sống tại các đảo bãi ngoài biển, đây là một lực lượng bán vũ trang có nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu.

 

Ng.Th (st)

Go to top