Tàu cá vỏ thép của “Hai lúa” Bắc Kỳ
Mươi năm trở lại đây, “Hai lúa” trở thành cách gọi thân quen của nhiều người khi nói đến những nông dân Nam Bộ có ý chí vươn lên làm giàu hoặc đi đầu trong cải tiến công cụ.
Có “Hai lúa” làm cả máy bay, tàu ngầm... nổi danh với sự táo bạo, bỏ tiền bỏ của cho ước mơ chinh phục bầu trời và đại dương.
Ở Bắc Bộ cũng có những nông dân như thế. Từ “Hai lúa” trong bài viết này chúng tôi muốn mượn cách gọi của người Nam Bộ để nói về một ngư dân quê ở vùng lúa nước
Theo thống kê của ngành thủy sản, đội khai thác tàu cá cả nước có 127.000 chiếc. Trong đó phần lớn là tàu hoạt động ven bờ, công suất động cơ dưới 20 mã lực, thiết bị an toàn thiếu. Loại tàu 400 mã lực trở lên, có 4.000 chiếc, nhưng trang thiết bị quá đơn giản, không hành trình được dài ngày để đi biển xa, hiệu quả đánh bắt chưa cao.
Chiếc tàu đầu tiên của đề án thí điểm được hoàn thành ở Công ty Cổ phần Công nghiệp tàu thủy Sông Đào (
Tàu đánh cá bằng lưới rê, độ dài tối đa của lưới lên tới 25km với trọng lượng xấp xỉ 50 tấn, mắt lưới đảm bảo cá dưới 2kg chui lọt, có nghĩa rằng tàu chỉ bắt loại cá có trọng lượng trên 2kg/con.
Ngày bàn giao tàu chúng tôi đã có cuộc trao đổi với anh ngay trên bờ con sông cổ Vị Hoàng. Vào năm 1832, vua Minh Mạng cho đào lại sông Vị Hoàng để nối sông Hồng với sông Đáy, nên từ đó đến nay không gọi là Vị Hoàng, mà có tên gọi là sông Đào như ngày nay. Hai bờ sông Đào bây giờ là hai con đê được nâng cấp thành hai tuyến giao thông kiên cố của tỉnh
Anh Tuyên này, có mạo hiểm không khi anh quyết định thay chiếc tàu cá vỏ gỗ quen thuộc của mình bằng con tàu vỏ thép?
- Nói là mạo hiểm thì hơi quá (Tuyên cười). Ở đất Hải Hậu ngoài trồng lúa còn có nghề đi biển. Thời xa xưa các cụ còn dùng mảng luồng khai thác gần bờ. Sau giải phóng (1975), thời cha chú dùng tàu gỗ cũng chỉ đi biển gần. Nay đến thời chúng tôi thì thay tàu gỗ bằng tàu vỏ thép đi biển xa là bước phát triển hợp lý chứ có gì là mạo hiểm đâu.
Nếu từ mạo hiểm chúng ta dùng để nói tới đầu tư, nghĩa là một con tàu cá vỏ thép thế này có thể bằng tiền tới vài chiếc tàu vỏ gỗ cùng kích thước?
- Vốn đầu tư ban đầu cho tàu vỏ thép hiển nhiên lớn hơn tàu gỗ. Nhưng phần chênh lệch ấy đối với chiếc tàu của chúng tôi đã được giải quyết nhờ sự hỗ trợ rất lớn từ SBIC. Chúng tôi chỉ là người sử dụng tàu để khai thác. Như vậy là ổn về đầu tư.
Sau khi nhận tàu đưa vào khai thác thì rõ ràng chúng tôi có những lợi thế mà tàu gỗ không có được đó là: tàu an toàn để đi biển xa với hành trình dài ngày. Theo tính toán của tôi thì có thể một chuyến đi trên tàu vỏ thép có số ngày đi biển gấp hơn hai lần tàu gỗ. Chi phí nhiên liệu nếu tính theo tấn tải trọng lại thấp hơn, vùng biển đánh bắt được mở rộng, và khả năng trúng mẻ lớn cao hơn tàu gỗ nhiều lần.
Anh Tuyên có thâm niên đi biển bao năm rồi, lần này anh sẽ chọn hướng nào để xuất phát?
- Hai mốt (21) năm trong nghề rồi. Đội tàu của tôi có 10 anh em và sẽ chọn vùng biển từ Nghệ An đến Quảng Bình cho chuyến đi đầu. Vùng biển này gió mùa đông bắc về sẽ là vùng có cá thu. Nếu trúng cá thu thì tàu sẽ cập bến vào trước Tết Nguyên đán. Tôi sẽ gọi điện báo cho nhà báo nhé.
Cám ơn anh nhiều và mong sẽ nhận được điện thoại từ Quảng Bình của anh.
Tạm biệt “Hai lúa” trên bờ sông Đào, chúng tôi cùng vào hội trường để chứng kiến Lễ bàn giao chiếc tàu mẫu có số hiệu thiết kế TK V011 – 01. Chủ tàu Phạm Văn Tuyên đặt tên tàu của mình là Hải Âu. Ông Nguyễn Đức Hiển, Bí thư Đảng ủy xã Hải Chính, huyện Hải Hậu cho biết: Ngư dân xã ông đều ủng hộ việc dùng tàu cá vỏ thép thay cho vỏ gỗ và anh Tuyên là người may mắn được nhận chiếc tàu đầu tiên. Ông mong sau anh Tuyên, sẽ có những ngư dân của xã được sử dụng tàu cá vỏ thép bằng sự hỗ trợ của Nhà nước. Bởi ông tin rằng tàu cá vỏ thép sẽ làm thay đổi được cách khai thác của ngư dân, vì nguồn lợi thủy sản xa bờ có trữ lượng lớn và giá trị hơn nhiều, bởi thế ngư dân sẽ tăng được thu nhập, con đường làm giàu từ biển phải như vậy, không thể cứ quanh quẩn mãi ở quanh bờ với con tàu mỏng manh vỏ gỗ.
Ông Nguyễn Ngọc Quế, Giám đốc Sông Đào cho hay, ngay sau khi bàn giao cho anh Tuyên chiếc tàu số 1, Sông Đào làm lễ cắt tôn để đóng ngay chiếc số 2. Bên cạnh việc đóng mới tàu cá vỏ thép cho ngư dân, SBIC còn đóng những loại tàu dịch vụ cho ngư trường. Loại tàu này có nhiều công năng như làm đá, bảo quản và sơ chế hải sản, cung cấp hậu cần cho tàu cá tại chỗ... Tàu dịch vụ sẽ cải thiện đáng kể thời gian đi biển của ngư dân ở các ngư trường, chính vì thế mà các tàu cá xa bờ có hiệu quả đánh bắt cao hơn.
Thép hóa đội tàu cá có thể ví như một cuộc cách mạng kỹ thuật cho ngư dân nước ta. Đưa khoa học kỹ thuật vào thực tiễn cuộc sống không đơn giản. Bởi thói quen con người không dễ thay đổi trong một sớm một chiều. Việc ngư dân Hải Hậu Phạm Văn Tuyên đi tiên phong đúng là một “Hai lúa” thời đổi mới. Sau anh Tuyên, chắc nhiều ngư dân sẽ thay tàu vỏ gỗ của mình. Nhưng anh vẫn là người đi đầu, vẫn xứng đáng với tên gọi trìu mến “Hai lúa” Bắc Bộ với tàu cá vỏ thép.
Nguyễn Đức Ngọc