Tài năng đóng tàu và đi biển của người Việt
Thế kỷ XIX, nước Việt đã có các hải đội viễn dương thường xuyên vượt biển đến những quốc gia xa xôi. Mỗi hải trình ròng rã hàng tháng, xuyên qua các vùng biển nhiều hải tặc và dông bão hiểm nguy... Điều này chứng tỏ người Việt đã làm chủ được kỹ thuật đóng tàu biển và thông thạo kỹ thuật hàng hải.
Các loại thuyền này được kết hợp với kỹ thuật đóng tàu Pháp, công xưởng đóng tàu chính ở Huế, nhưng các địa phương Sài Gòn, Nghệ An, Thanh Hóa... vẫn tiếp tục được giao đóng và trưng dụng thợ thuyền, gỗ quý. Ba lần Nguyễn Tri Phương xuất ngoại đến Indonesia thì hai lần đi bằng thuyền bọc đồng Thụy Long, một lần bằng thuyền Phấn Bằng. Ngoài ra, những thuyền bọc đồng khác như Linh Phượng, Thanh Loan, Thanh Dương cũng được triều đình thường xuyên dùng làm phương tiện đi nước ngoài. Nhân vật lịch sử Cao Bá Quát cũng từng xuất ngoại với Đào Trí Phú và trở về bình an. Lênh đênh hải trình, ông đã để lại cho hậu thế các bài thơ Hồng Mao hỏa thuyền ca và Dương phụ hành, kể lại những gì mắt thấy tai nghe về tàu hơi nước phương Tây.
Thuyền trưởng Mỹ John White đến nước Việt vào năm 1819 đã nhiều lần miêu tả khả năng vận hành tuyệt vời của thủy thủ bản xứ: “Nhiều chiếc thuyền có đến chín tay chèo đi lên Sài Gòn đã vượt qua chúng tôi với một tốc độ đáng kinh ngạc”. Trong chuyến ngược ra miền Trung, John White cũng rất thú vị với kỹ thuật đi biển của ngư dân Việt. Ông mô tả họ như nhảy múa trên sóng với những chiếc thuyền nhỏ mà không có giọt nước nào bắn vào thuyền.
Trong lúc những nhà hàng hải khác như John Barrow không ít lần khen ngợi kỹ thuật đi biển của người Việt thì Michel Đức Chaigneau, con trai một người Pháp lấy vợ Việt, từng sống nhiều năm ở Huế dưới triều vua Gia Long và Minh Mạng, đã kể tỉ mỉ: “... Những người Việt sử dụng mái chèo với sự khéo léo, tài tình đáng kinh ngạc. Ở một thuyền chiến thường có đến 70 lính thủy chèo thuyền, hiếm khi có người lơi tay chèo trong toàn thể”. Trong hồi ký, người Pháp lai Việt này dành nhiều nội dung kể hải quân nước Việt đầu thế kỷ XIX và khẳng định có ít nhất 700-800 thuyền với chiến hạm đủ cỡ, nhiều chiếc được trang bị đến 22 khẩu đại bác.
Nhật ký The eastern seas on voyages and adventures in Indian archipelago vào năm 1832 của nhà hàng hải Goerge Windsor có đoạn: “Bão táp thật dữ dội ngoài biển khơi, thiếu chút nữa thì thương thuyền chúng tôi bị gãy đổ cả cột buồm. Thời tiết tiếp tục xấu như thế trong nhiều ngày. Vậy mà khi đang thận trọng dẫn tàu vào eo biển, chúng tôi chợt nhận ra sáu chiếc thuyền nhỏ của người Việt đang giương hết mọi cánh buồm, cứ thản nhiên như không, tiến thẳng tới trước”.
“Tài ba của họ không thua kém bất cứ một thủy thủ đoàn hạng nhất nào ở châu Âu. Đoàn thuyền bé tí teo đó không một chiếc nào vượt quá 50 tấn, vậy mà những người đi biển này đè bẹp cả sóng gió biển Đông vào giữa mùa bão tố”.
Điều rất thú vị là không chỉ người Pháp đến từ các chiến thuyền, mà nhiều cường quốc hàng hải như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Mỹ đều đã ngược xuôi trên vùng biển Đông của người Việt từ rất sớm.
Quê hương ở tận Massachussetts, trung úy thuyền trưởng John White đã khởi hành từ đầu tháng giêng năm 1819 trên chiếc tàu Franklin qua nhiều vùng biển, hải cảng, kể cả những cuộc chiến đấu với hải tặc Malacca và mãi đến ngày 7-6 mới tới Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Trong hồi ký “Chuyến đi đến Nam Hà” được phát hành năm 1824 ở London, vị thuyền trưởng có cả máu thám hiểm lẫn thương buôn kể rằng: “11 giờ ngày 7 (tháng 6 năm 1819 - PV), chúng tôi đã thấy được Cap Saint Jacques ở phía bắc đông bắc. Mũi này là nơi khởi đầu của một dãy núi chạy dọc theo bờ biển về hướng bắc... Đây chính là vùng đất cao đầu tiên mà người ta nhận thấy được khi đi từ phương
John White đã kể tỉ mỉ mình neo tàu ở vùng nước sâu năm sải và chỉ cách làng Vũng Tàu một hải lý. Ông khen đây là nơi đậu tàu an toàn đến tuyệt vời. Mục đích của thuyền trưởng người Mỹ này là vào sâu Sài Gòn qua cửa Cần Giờ để tìm cơ hội buôn bán. Tuy nhiên, chính thời gian phải neo chờ và thực hiện hải trình dọc bờ biển ra kinh thành Huế, John White đã được tận mắt chứng kiến và khen ngợi kỹ thuật đóng tàu cùng khả năng đi biển của người Việt.
Khi mô tả khả năng lướt sóng của những chiếc thuyền mê tre độc đáo của người Việt, John White viết: “Những chiếc thuyền ấy rất bền, khi buồm no gió chúng được đẩy nhanh và đi biển rất tốt. Thuyền có hai hoặc ba cánh buồm được cắt rất sắc sảo và được làm rất thích đáng... Những cánh buồm ấy đều làm bằng đệm lát, những cánh buồm của thuyền buôn đều có dây thu buồm xỉn màu đen. Theo nguyên tắc chung ở phương Đông, những mỏ neo đều làm bằng gỗ và chỉ có một chân neo. Những dây néo buồm và dây chão phần lớn làm bằng cây mây và thừng chão bằng xơ dừa, những dây dừa bện rất tốt...”.
Ngược ra miền Trung để gặp gỡ những người thợ đóng thuyền cao niên ở vùng Quảng Ngãi, Quảng Nam, để đưa hồi ký của John White cho họ đọc nhằm kiểm chứng tính xác thực trong các miêu tả của ông. Thật bất ngờ, gần 200 năm sau, những điều mắt thấy, tay chạm kỹ thuật thuyền bè người Việt của viên thuyền trưởng Mỹ vẫn được người thợ bản xứ truyền đời duy trì. Người thợ cả Nguyễn Tấn Trà, 76 tuổi, ở làng nổi danh với nghề đóng tàu thuyền ở xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi, nhận xét: “Gần như toàn bộ các miêu tả của thuyền trưởng người Mỹ về kỹ thuật đóng tàu này đều chính xác. Không chỉ loại thuyền thân cong thuận lướt sóng hay tấm mê tre dễ nhìn thấy, mà ngay cả những cánh buồm đệm lát, dây chão bằng xơ dừa, mỏ neo bằng gỗ lim cũng được ông ta phát hiện chính xác”.
Ng.Th (tổng hợp)