Xuân mới nói lại chuyện tàu không số

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - linh hồn các đoàn tàu không số

Tháng 7 năm 1959, Đại tướng, Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho Bộ Tổng tham mưu thành lập tiểu đoàn Vận tải thủy 603 làm nhiệm vụ chi viện vũ khí cho miền Nam, mang tên “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”. Đại tướng dặn đi dặn lại: “Việc mở đường không được ai biết... Không để lọt vào tay địch một người, một hiện vật. Một mẩu thuốc lá cũng có thể tạo nên một tang chứng làm hỏng việc lớn...”.

Thế là các tỉnh Nam Bộ, Khu 7, Khu 8 khẩn trương tổ chức lực lượng và phương tiện ra Bắc nhận vũ khí. Bến Tre tổ chức được 3 đội thuyền ra Bắc, và 2 thuyền đã cập bến Kỳ Anh, Hà Tĩnh vào tháng 8 năm 1961. Quân ủy Trung ương chỉ đạo Bến Tre không đưa đội thuyền thứ hai ra nữa mà ở lại để chuẩn bị bến bãi, kho tàng, sẵn sàng đón tàu chở vũ khí vào.

Các thuyền đều đóng giả thuyền đánh cá miền Nam với giấy tờ, căn cước đàng hoàng. Bạc Liêu - Cà Mau cũng thành lập được 2 đội thuyền, nhưng chỉ một thuyền do đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy ra được Bắc, cập cảng Nhật Lệ. Tỉnh Trà Vinh cũng lập được một đội thuyền vượt biển, nhưng lạc sang Macau, rồi Trung Quốc, nhờ Đại sứ quán ta mới về được miền Bắc. Bà Rịa cũng có thuyền vượt biển, bị lạc vào đảo Hải Nam, Trung Quốc, cuối cùng cũng về được miền Bắc. Ra đến miền Bắc, số cán bộ chiến sĩ miền Nam này chính là lực lượng nòng cốt để Bộ Tổng tư lệnh xây dựng Đoàn tàu không số - Đoàn 759.
                        Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi kiểm tra vùng biển Quảng Ninh (Ảnh tư liệu)

Để chắc chắn, Đại tướng đã chỉ thị cho đồng chí Bông Văn Dĩa phải trở về thăm dò tình hình địch và bến bãi ở Khu 9, Cà Mau, rồi ra Bắc báo cáo lại tình hình. Trung tuần tháng 8 năm 1962, Quân ủy Trung ương họp thông qua Nghị quyết mở đường vận chuyển chiến lược trên biển chi viện cho cách mạng miền Nam. Sau khi nghe Trung tướng Trần Văn Trà báo cáo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi: “Liệu có thể đảm bảo thành công 50% những chuyến đi không?”. Tướng Trần Văn Trà trả lời: “Đạt 100% thì khó chứ 50% thì tôi chắc được”. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh nói thêm: “Chỉ cần nửa số chuyến đi vào được bến cũng đã là thắng lợi to rồi!”. Thế là Nghị quyết chính thức được thông qua.

Và 22 giờ ngày 11 tháng 10 năm 1962, chiếc tàu vỏ gỗ đầu tiên mang tên “Phương Đông 1” cùng với 13 chiến sĩ, do thuyền trưởng Lê Văn Một và chính trị viên Bông Văn Dĩa chỉ huy, chở hơn 30 tấn vũ khí rời bến Vạ Sét, Đồ Sơn lên đường đi Cà Mau. Lộ trình chuyến đi hết sức bí mật, theo đó tàu đi từ Hải Phòng ra hải phận quốc tế theo tuyến Hồng Kông - Sài Gòn, Hồng Kông - Thái Lan vào đến ngoài khơi Cà Mau thì chuyển hướng chạy thẳng vào bến ở các cửa sông theo kế hoạch. Tàu không mang số mà chuẩn bị sẵn rất nhiều biển số các tàu đánh cá của ngư dân vùng biển miền Trung và Nam Bộ để ngụy trang.

Theo kế hoạch tàu sẽ đi 5 ngày nhưng mới đi 1 ngày, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã sốt ruột hỏi: “Có tin gì chưa?”. Hôm sau lại hỏi: “Tàu đã đến nơi chưa?”. Sau 9 ngày vượt biển, tàu Phương Đông 1 đã vào đến bến Vàm Lũng, Cà Mau an toàn trước sự vui mừng khôn xiết của mọi người. Ngày 19 tháng 10 năm 1962, Bí thư Khu ủy Khu 9 Phạm Thế Bường điện cho Quân ủy Trung ương báo cáo: Tàu đã về đến nơi an toàn... Nhận được điện báo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp mắt nhòa lệ, nói: “... Tính ra theo đường biển, tàu chở 30 tấn vũ khí đủ trang bị cho một tiểu đoàn, chỉ đi trong 9 ngày với một tiểu đội, lợi hơn gấp bao nhiêu lần đường bộ, bằng 1.500 người gùi cõng trên đường Trường Sơn A trong 5 tháng...”. Đó là sự đánh giá, tổng kết rất chính xác của Đại tướng.

Vì thế, sau khi nghe đề án vận chuyển vũ khí bằng đường biển cho Khu 5, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Đường biển là con đường duy nhất có thể chi viện cho đồng bằng sông Cửu Long nên phải giữ cho được bí mật con đường đó. Phải kiểm tra thật kỹ, nắm chắc từng chuyến đi vào Khu 5. Không để một sai sót nhỏ khiến kẻ địch nghi ngờ...”. Theo chỉ đạo của Đại tướng, Đoàn 759 đã tiến hành rất nhiều chuyến tàu vào bến Ray (Bà Rịa), bến Lộ Giao (bãi ngang) Bình Định.

Sau khi nghe Cục Tác chiến và Bộ Tư lệnh Hải quân chọn Vũng Rô làm bến đỗ, vì đây sẽ là chỗ không ngờ nhất đối với Mỹ và quân đội Sài Gòn, Đại tướng ngẫm nghĩ một lúc rồi quyết: “Đồng ý vào Vũng Rô”. Vậy là thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh (hiện sống ở Tuy Hòa, Phú Yên) đã chỉ huy 3 chuyến tàu vào bến Vũng Rô thành công với 180 tấn vũ khí được chi viện cho chiến trường Khu 5...

 “Người không số” thiết kế con tàu không số

Ông Trịnh Xương (nguyên trưởng nhóm thiết kế tàu không số) nhớ lại, vào đầu năm 1961, hội nghị Trung ương họp bàn đưa ra nhận định Mỹ mở rộng quân sự  ra miền Bắc, vi phạm hiệp định Giơ-ne-vơ. Chiến trường miền Nam đang vô cùng khốc liệt với sự leo thang quân sự của Mỹ - Ngụy. Địch đánh phá ác liệt tuyến đường Trường Sơn nhằm chặt đứt mọi con đường tiếp viện của quân, dân ta từ miền Bắc vào. Tình thế cấp bách, Đảng trực tiếp giao nhiệm vụ cho các đồng chí Phạm Hùng (lúc đó là Phó Thủ tướng phụ trách công tác thống nhất, tướng Trần Văn Trà (Thứ trưởng Bộ Quốc phòng), Bộ trưởng Giao thông Vận tải Phan Trọng Tuệ, Cục trưởng Ngô Văn Năm.
                        Ông Trinh Xương - trưởng nhóm thiết kế tàu không số hồi tưởng lại

Các đồng chí trên họp bàn và đưa ra nhận định phải làm sao phải thiết kế được một loại tàu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của chiến trường. Đó là con tàu có trọng tải trăm tấn, chạy trên biển, chở được vũ khí hạng nặng, chịu được sóng gió cấp 8 - 9, lượng nhiên liệu phải đủ để có thể chạy 20 - 30 ngày, chở ít nhất được một tiểu đội tương đương 12 thuyền viên nhưng phải nhỏ gọn. Tàu đó đi ra ngoài hải phận, ven bờ đều an toàn, chạy nhanh...

Ông Trịnh Xương kể lại: "Có một số nơi ghi thông tin nói rằng, tôi không biết thiết kế con tàu là gì. Thực tế các yêu cầu về trọng tải, về hình dáng được Phó Thủ tướng Phạm Hùng đưa ra ngay khi họp các ngành, bộ phận liên quan. Những buổi bàn bạc nhiều lần được diễn ra ngay chính tại nhà của Phó Thủ tướng Phạm Hùng. Tất cả các thành viên tham gia cuộc họp đều góp ý kiến về con tàu trăm tấn này. Lúc đó tôi mới gần 30 tuổi. Đó là nhiệm vụ, là vinh dự, tự hào của người chiến sỹ cách mạng. Các đồng chí lãnh đạo giao cho tôi về nghiên cứu và trả lời về con tàu không số sau hai tuần".

Ông Trịnh Xương đã cùng các kỹ sư Lương Văn Triết, Đào Văn Hùng, Đinh Ngọc Liễn... thức trắng nhiều đêm loay hoay tìm lời giải cho hình dáng, kết cấu của con tàu. Những tiêu chuẩn về hình dáng con tàu phải nhỏ gọn, chịu được tải trọng hàng trăm tấn, liên tục thực hiện nhiệm vụ hàng hải trong cả tháng trời, tính hàng hải ổn định, chịu được lắc ngang, lắc dọc mà vẫn giữ được tốc độ khoảng 10 hải lý (18 km/giờ)... quả không dễ dàng gì trong điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn. Sau hai tuần ông Trịnh Xương cùng các đồng nghiệp đưa ra phương án về thiết kế con tàu 100 tấn. Ông lên Bộ Quốc phòng gặp Thứ trưởng Trần Văn Trà trình bày phương án về thiết kế và thi công tàu không số 100 tấn. Sau đó, ông và các cộng sự được giao hoàn thành thiết kế sơ bộ, thiết kế thi công tàu không số trong vòng một tháng. Thiết kế tuyến hình được chuyển khẩn cấp đến Xưởng đóng tàu số 3 (Hải Phòng) thực hiện. Cấu tạo chung của con tàu bao gồm 3 hầm (1 hầm lái và 2 hầm hàng). Công việc được triển khai nhanh, từ xưởng đóng tàu này, 6 chiếc tàu 100 tấn đã lần lượt ra đời.
                                                                Tàu không số huyền thoại (Ảnh tư liệu)

Đến ngày hôm nay, ông Trịnh Xương vẫn chưa quên cảm giác hồi hộp, lo lắng đến nghẹt thở khi con tàu không số đầu tiên hạ thủy. "Ngày đó không có máy móc để vẽ, chúng tôi có duy nhất một chiếc thước tĩnh để đo đạc, mọi tính toán đều được làm thủ công. Từ lúc đưa ra ý tưởng đến hoàn thành con tàu đầu tiên là trong vòng 3 tháng. Lúc đưa tàu ra hạ thủy ở Hải Phòng, tôi và ông Đậu Kim Quang, giám đốc Xưởng đóng tàu 3, gần như "nín thở". Chiếc tàu hạ thủy thành công và chuyến đi đầu tiên cập bến an toàn là thông tin tuyệt vời nhất trong đời mà tôi từng nhận được", ông Trịnh Xương tâm sự.

Những ngày tháng đó, ông gần như ăn nghỉ tại nhà máy đóng tàu để theo sát các khâu kỹ thuật, đảm bảo mọi thứ đúng như thiết kế. Từ chiếc thứ 7, khâu thi công được chuyển giao lại cho Nhà máy đóng tàu Tam Bạc (Hải Phòng). Vỏ được kết cấu hoàn toàn bằng thép quy chuẩn, có thể chịu được gió bão cấp 8 - 9, đảm bảo tốc độ trong cả thời tiết xấu. Ông Xương kể tiếp, ông đảm bảo mọi thứ đến chiếc tàu 100 tấn thứ 13 - ở trong nước - thì di chuyển việc đóng tàu sang các xưởng tại Thượng Hải (Trung Quốc). Tất nhiên, ông vẫn phải trực tiếp sang đó theo dõi quá trình đóng tàu.

Toàn bộ những con tàu không số đóng xong được giao cho đoàn 759 phụ trách việc khai thác. Cũng nhờ đoàn tàu này mà một số lượng lớn vũ khí đã được chở vào chiến trường miền Nam phục vụ cho các chiến dịch, trận đánh tại mặt trận phía Đông và Tây Nam Bộ. "Nhiều lúc nghĩ lại, tôi vẫn không hiểu sao, tôi và mọi người lại có thể làm được một việc phi thường như thế. Có lẽ tuổi trẻ, lòng yêu nước, sự tin tưởng của các đồng chí lãnh đạo đã khiến chúng tôi làm được việc đó. Sau này, khi Mỹ công khai các báo cáo, tôi mới biết hải quân Mỹ đã từng mất 3 ngày truy đuổi một tàu không số của ta mà không bắt được", ông Xương tự hào chia sẻ.

Vào năm 1967, sau những chiến dịch thất bại, quân đội Mỹ - Nguỵ điên cuồng cho máy bay bắn pháo sáng để chặn đánh các thuyền vận tải từ miền Bắc (tại vùng biển Lạch Quèn, xã Quỳnh Tiến, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) chở vũ khí, đạn dược chi viện cho chiến trường miền Nam. Trước tình hình đó, ông Trịnh Xương đã đại diện cho nhóm thiết kế đề xuất với Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ cho đóng gấp rút loại thuyền vỏ gỗ (theo kiểu thuyền đánh cá Gò Công) có trọng tải 3 - 5 tấn, giả dạng là tàu đánh cá của ngư dân để chuyên chở vũ khí vào miền Nam hòng "qua mặt" các phương tiện dò xét tiên tiến của địch. Chiếc tàu này được thiết kế hai đáy. Đáy dưới dùng để giấu vũ khí, còn mặt trên vẫn được ngụy trang như một chiếc tàu đánh cá bình thường để “qua mặt” các cuộc kiểm tra của quân địch. Đề xuất của ông Xương và cộng sự một lần nữa được lãnh đạo chấp thuận.

"Lúc đó, ta đã huy động 12 tỉnh miền Bắc có nghề đóng tàu thuyền cùng tham gia chiến dịch này. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng nghìn chiếc tàu "đánh cá" mang trọng trách của một "chiến tàu" được hoàn thành và đưa vào phục vụ chiến đấu. Chiến dịch này mang tên "T5", và đội vận tải tiền phương bằng thuyền thô sơ chính thức ra đời. Trong khi địch vẫn đang tập trung đánh phá xe vận tải đường bộ, ta đã lén dùng thuyền "đánh cá" đưa vũ khí vào sâu tiền tuyến" - ông Xương cho biết.

Trong suốt 14 năm liên tục (1961-1975) tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, với những con tàu không số huyền thoại của bộ đội Hải quân Việt Nam đã thực hiện 1.789 chuyến, vận chuyển 150 ngàn tấn vũ khí và hàng ngàn lượt cán bộ, vượt qua hàng vạn hải lý, khắc phục hơn 4.000 quả thủy lôi, chống chọi hơn 20 cơn bão, chiến đấu hơn 30 lần với tàu địch, đánh trả 1.200 lần máy bay địch tập kích, bắn rơi 5 chiếc và bắn cháy nhiều tàu xuồng của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều chiến sỹ đã anh dũng hy sinh trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển.

 

Anh Thư (Sưu tầm)

Go to top